Hàn Quốc, chặng đường phát triển của 70 năm độc lập-Phần 48: Hàn Quốc bước vào kỷ nguyên đa văn hóa
19/12/2015 GMT+7
Phần 48: Hàn Quốc bước vào kỷ nguyên đa văn hóa
2015-12-15
[Gần 2 triệu người nước ngoài đang sống tại Hàn Quốc]
Theo báo cáo về tình hình người nước ngoài của Bộ Hành chính nội vụ Hàn
Quốc, tính đến tháng 1 năm 2015, số người nước ngoài cư trú tại Hàn Quốc
đã đạt tới con số 1.741.919 người. Nếu tính cả những người nhập cư theo
diện kết hôn thì con số sẽ vượt quá 2 triệu người. Như vậy, Hàn Quốc
trở thành một xã hội đa văn hóa đích thực, nơi các thành viên tuy xuất
thân nhiều nền văn hóa khác nhau nhưng cùng sinh sống trên cơ sở tôn
trọng lẫn nhau. Số lượng người lao động nước ngoài, người nhập cư theo
diện kết hôn và con cái của các gia đình đa văn hóa đã tăng mạnh trong
những năm gần đây. Cụ thể là con số này đã tăng từ khoảng 537.000 người
vào năm 2006, thời điểm mới bắt đầu tiến hành điều tra tình hình người
nước ngoài cư trú tại Hàn Quốc, lên hơn 1,56 triệu người vào năm 2014.
Và chỉ trong năm ngoái, số lượng người nước ngoài đã tăng thêm 170.000
người, đạt hơn 1,7 triệu người, chiếm 3,4% tổng dân số của Hàn Quốc tính
đến tháng 1 năm 2015. Trên toàn quốc có đến 12 nơi được coi là những
thành phố, khu vực đa văn hóa khi số lượng người nước ngoài chiếm hơn 5%
tổng dân số ở đó. Trong số này, bảy khu vực có mật độ người nước ngoài
cao nhất, với trung bình cứ 10 người dân thì có một người là người nước
ngoài. Đây đều là những nơi tập trung nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng
các công trường, ví dụ như quận Yeongdeungpo, quận Geumcheon, quận Guro
ở Seoul, thành phố Ansan và Siheung trực thuộc tỉnh Gyeonggi.
Xét trên cả phương diện văn hóa lẫn trong suốt chiều dài lịch sử hàng
nghìn năm, Hàn Quốc là quốc gia khá thuần nhất và chưa từng có kinh
nghiệm chung sống với các dân tộc khác. Nhưng kể từ sau những năm 1990,
người Hàn Quốc đã bắt đầu đón nhận người nước ngoài đến cộng đồng của
mình. Bình luận viên thời sự Choi Young-il giải thích: “Người
nước ngoài bắt đầu nhập cư vào Hàn Quốc từ sau những năm 1990 dưới nhiều
hình thức như xuất khẩu lao động hay kết hôn với người Hàn. Nguyên do
là bởi giới trẻ Hàn Quốc khi đó đều tránh làm những công việc thuộc dạng
3D, tức là những việc khó khăn, nguy hiểm và điều kiện làm việc kém vệ
sinh. Và xu hướng thất nghiệp trong thanh thiếu niên ở Hàn Quốc đang
tăng nhanh, nhưng một bộ phận không nhỏ người trẻ vẫn từ chối làm những
công việc vất vả, thu nhập thấp. Vì vậy, để lấp đầy khoảng trống này,
Chính phủ mới cho phép các công ty tuyển dụng người từ các nước đang
phát triển hoặc kém phát triển hơn so với Hàn Quốc. Kể từ đó, thị trường
lao động mới dần được mở cửa và ngày càng có nhiều người lao động nước
ngoài đến Hàn Quốc tìm cơ hội việc làm. Bên cạnh đó, từ 20 năm nay,
nhiều nam giới sống ở các vùng nông thôn của Hàn Quốc do hoàn cảnh cá
nhân mà không thể lập gia đình đã chuyển hướng ra tìm vợ là người nước
ngoài, và điều này đã tạo điều kiện cho một bộ phận không nhỏ những phụ
nữ nước ngoài nhập cư vào theo diện kết hôn.”
[Lao động nước ngoài bắt đầu đến Hàn Quốc từ những năm 1990]
Bước vào những năm 1990, ở Hàn Quốc đã xảy ra tình trạng thiếu hụt nhân
lực lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tế là quan điểm,
nhận thức của người lao động Hàn Quốc khi đó đã khác nhiều so với trước,
nên họ không còn thiết tha những công việc chân tay vất vả như làm cho
các xưởng dệt may hay nhà máy sản xuất giày dép. Điều đó đã đẩy các
ngành này rơi vào tình trạng suy thóai do sự thiếu hụt nhân lực với số
lượng lớn. Để giải quyết vấn đề này, kể từ năm 1993, Chính phủ Hàn Quốc
đã cho phép áp dụng chế độ tu nghiệp sinh trong lĩnh vực công nghiệp, và
một năm sau đó đã chính thức chấp nhận lao động nước ngoài vào làm việc
tại Hàn Quốc. Kể từ khi thực hiện chương trình tu nghiệp sinh trong
lĩnh vực công nghiệp, số lượng lao động nước ngoài đã tăng nhanh và vượt
quá con số 350.000 người vào năm 2003. Nhưng cùng với đó là một vấn đề
khác nảy sinh. Đó là việc những tu nghiệp sinh không được công nhận như
những lao động thực sự, nên thay vì được học hỏi công nghệ rèn kỹ năng,
thì họ lại bị bóc lột sức lao động với mức trả công rẻ mạt, và thậm chí
còn bị xâm phạm về mặt nhân quyền. Ngoài ra, có người đã cố ý rời bỏ nơi
tu nghiệp của mình để lưu trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc. Từ đó, có
nhiều tiếng nói cho rằng chương trình tu nghiệp sinh nói trên chưa thực
sự hiệu quả và yêu cầu Chính phủ thay đổi chính sách. Do đó, vào tháng 8
năm 2004, Chính phủ Hàn Quốc đã bắt đầu áp dụng chương trình cấp phép
việc làm cho lao động nước ngoài tại Hàn Quốc (EPS). Theo đó, các công
ty trong nước không có đủ nguồn nhân lực sẽ được phép tuyển dụng người
nước ngoài một cách hợp pháp để làm việc.
Cùng với việc triển khai hệ thống cấp phép việc làm cho lao động nước
ngoài, Chính phủ Hàn Quốc mở cửa thị trường lao động cho người dân của
15 quốc gia, trong đó có Philippines, Trung Quốc, Bangladesh và Nepal.
Và cũng kể từ đó, số lượng lao động nước ngoài nhập cảnh vào miền đất
hứa Hàn Quốc đã tăng mạnh. Bình luận viên thời sự Choi Young-il nói: “Hàn
Quốc đã trải qua giai đoạn công nghiệp hóa vào những năm 1970 để trở
thành một trong 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới xét theo tiêu chuẩn của
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Điều đó có nghĩa là có
rất nhiều nước có mức sống thấp hơn so với Hàn Quốc. Những nước đang
phát triển hoặc kém phát triển nhìn Hàn Quốc như là một biểu tượng thịnh
vượng, năng động và là nơi có rất nhiều cơ hội kiếm được lương cao và
làm các công việc khác nhau. Có thể nói, Hàn Quốc là một đất nước mơ ước
đối với những con người ấy. Do đó, nhiều người nước ngoài cũng đã bắt
đầu tìm cách để sang Hàn Quốc làm việc.”
Theo báo cáo về tình hình người nước ngoài thì có tổng cộng khoảng
608.116 người nước ngoài làm việc tại Hàn Quốc tính đến năm 2015. Con số
này cho thấy rằng đây là một phần không thể thiếu của lực lượng lao
động ngành công nghiệp ở Hàn Quốc.
[Kết hôn quốc tế biến Hàn Quốc thành quốc gia đa văn hóa]
Bước vào những năm 1990, cùng với những lao động nhập cư là sự gia tăng
số lượng phụ nữ nhập cư theo diện kết hôn với người Hàn. Điều đó đã đưa
Hàn Quốc thực sự bước vào kỷ nguyên đa văn hóa. Chị Anna, người Nga, chị
Soo-hyun, người Indonesia nhập quốc tịch Hàn và chị Ngọc người Việt Nam
là những phụ nữ như vậy. Có thể nói, việc kết hôn quốc tế của những
người đàn ông nông thôn Hàn Quốc góp phần thúc đẩy yếu tố đa văn hóa.
Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng trong những năm 1990 đã dẫn đến
hiện tượng mất cân bằng giới tính trong cộng đồng nông thôn, buộc những
người đàn ông ở đây phải tìm kiếm phụ nữ nước ngoài để lập gia đình. Nếu
như vào năm 1990, tỷ lệ các cuộc hôn nhân quốc tế chỉ chiếm 1,2% tổng
số các cuộc hôn nhân ở Hàn Quốc, thì đến năm 2010, tỷ lệ này đã đạt 10%.
Bình luận viên thời sự Choi Young-il nói: “Trong số những người
nhập cư vào Hàn Quốc theo diện kết hôn thì người Trung Quốc chiếm tỷ lệ
lớn nhất, với hơn 20% của tổng số các gia đình đa văn hóa. Con số này
không bao gồm những người Trung Quốc gốc Hàn vốn chiếm khoảng 14% tổng
số người nước ngoài tại Hàn Quốc. Nếu cộng lại cả người Trung Quốc gốc
Hàn, số người nhập cư Trung Quốc nói chung chiếm khoảng 34% dân số người
nước ngoài. Sau đó là người nhập cư từ Việt Nam với khoảng 16%. Ngoài
ra còn có bộ phận thiểu số dân đến từ Philippines, Đông Âu, Tây Âu, Ả
Rập, Mông Cổ, Ukraine. Có thể thấy, đất nước Hàn Quốc tuy nhỏ bé nhưng
lại là nơi sinh sống của rất nhiều các dân tộc trên thế giới.”
[Chính phủ tích cực hỗ trợ gia đình đa văn hóa hòa nhập xã hội]
Cho đến thời điểm hiện tại, số lượng người nhập cư đến Hàn Quốc theo
diện kết hôn đã đạt khoảng 300.000 người. Để giúp họ nhanh chóng hòa
nhập với cuộc sống ở đây, Chính phủ và các đoàn thể dân sự đã tiến hành
nhiều chương trình hỗ trợ cũng như các chính sách giáo dục đa dạng. Ở
mỗi địa phương đều có một trung tâm đa văn hóa để giúp người nước ngoài
học tiếng Hàn từ đó nâng cao khả năng giao tiếp. Ngoài ra còn có các
hoạt động như khám sức khỏe, hướng dẫn chuẩn bị xin việc. Thậm chí có
nơi còn cho lập cả một khu rừng nghỉ dưỡng dành cho các gia đình đa văn
hóa. Một số phụ nữ nhập cư có dịp đến những nơi này đã không ngớt lời
khen ngợi: “Rất, rất đẹp. Ở Philippines cũng có nhà giống y hệt
vậy. Sau này tôi muốn cùng gia đình trở lại nơi đây. Tôi không thể về
thăm quê hương thường xuyên, nên khi nhìn thấy những ngôi nhà mang dáng
dấp nhà ở quê tôi, tôi thấy vui lắm.”
Cô Vitenko Anna, một phụ nữ nhập cư đến từ Nga, nói rằng chính nhờ các
chính sách hỗ trợ của Chính phủ và sự quan tâm của toàn xã hội, mà cuộc
sống của những người nhập cư như cô đã trở nên dễ dàng hơn nhiều.
“Trong suốt thời gian 10 năm sau khi kết hôn, tôi đã được giúp đỡ rất
nhiều ở đây. Hàn Quốc có nhiều trung tâm dành cho các gia đình đa văn
hóa. Các thành viên của trung tâm rất nhiệt tình chia sẻ với chúng tôi
nhiều thứ, từ những hũ kimchi trong mùa kimjang (mùa muối kimchi chuẩn
bị cho mùa đông), đến việc cùng làm bánh gạo tteok với chúng tôi trong
dịp lễ tết. Ngoài ra còn có các lớp học cho trẻ em, các chuyến đi cắm
trại cuối tuần cho các gia đình đa văn hóa. Tôi luôn luôn nói với chồng
mình rằng Hàn Quốc là một đất nước tuyệt vời. Những người Hàn thân thiện
ấy đã giúp tôi vơi bớt nỗi cô đơn trên đất khách quê người rất nhiều.
Có thể nói là cuộc sống của tôi sau hôn nhân còn tốt hơn trước và tôi dự
định sẽ sống ở đây cho đến hết đời.”
Với tỷ lệ kết hôn quốc tế tăng nhanh, thì số lượng trẻ em được sinh ra
trong các gia đình đa văn hóa cũng ngày càng nhiều. Tính đến nay, đã có
200.000 thiếu niên dưới 18 tuổi như vậy. Chính sách giáo dục công của
Hàn Quốc cũng ít nhiều được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình có thêm
nhiều học sinh đa văn hóa: Chính phủ đã ban hành thêm nhiều chính sách
dành cho các thanh thiếu niên đa văn hóa có khả năng nói cả tiếng Hàn và
tiếng mẹ đẻ, chẳng hạn như tổ chức các kỳ cuộc thi song ngữ. Những
chính sách này đã góp phần nuôi dưỡng những nhân tài mang hai dòng máu
và là nền tảng cho thời đại toàn cầu hóa đang tới. Một số thanh thiếu
niên đến từ các gia đình đa văn hóa cho biết: “Xin chào, cháu là
Kim Esra. Cháu rất tự tin là có thể nói tiếng Philippines giỏi. Bên
cạnh đó, cháu còn nói được tiếng Hàn và tiếng Anh nữa. Cháu tự hào về
điều này. Đối với cháu, có cơ hội được sử dụng cả hai ngôn ngữ thật là
tuyệt vời.”
Mặt khác, người nhập cư theo diện kết hôn nói riêng và người nước ngoài
nói chung đã nhập quốc tịch Hàn Quốc cũng đang nỗ lực hết sức để hòa
nhập với xã hội mới. Một ví dụ tiêu biểu là việc đổi sang tên họ theo
tiếng Hàn để dễ gọi hơn so với tên gọi cũ của mình. Cô Saran Gerel là
một phụ nữ Mông Cổ kết hôn và nhập cư vào Hàn Quốc từ năm 2007, đã tham
gia kỳ thi lấy quốc tịch vào năm 2011 và sau khi thi đỗ thì cô cũng đổi
tên mình thành Kim Sa-ra. Cô nói “Tôi nhận thấy việc để nguyên tên cũ sẽ gây bất tiện khi gọi, nên đã quyết định đổi tên.”
[Hàn Quốc hướng tới quốc gia đa văn hóa gương mẫu]
Hàn Quốc, đất nước chỉ có một dân tộc thuần nhất trong suốt chiều dài
hàng nghìn năm lịch sử, giờ đây đã thực sự trở thành một quốc gia đa văn
hóa với những chính sách, điều luật mới gần gũi hơn với những người
nước ngoài mới đến. Bình luận viên thời sự Choi Young-il nói: “Một
xã hội đa văn hóa thì sẽ không thể tránh khỏi những xung đột, mâu
thuẫn. Sẽ có lúc xuất hiện những vấn đề chưa từng xảy ra trước đó trong
xã hội truyền thống. Đó là tính đa dạng về văn hóa của chính những cư
dân cấu thành nên nó, là phương thức sinh hoạt, là ngôn ngữ khác nhau.
Nếu chúng ta có thể tận dụng tốt tính đa dạng này trên cả phương diện
nội dung và tinh thần, thì chắc chắn Hàn Quốc sẽ trở thành một cường
quốc văn hóa, góp phần khẳng định thương hiệu quốc gia trên phạm vi toàn
cầu.”
Trong bối cảnh biên giới giữa các nước ngày càng bị xóa nhòa, và việc
giao lưu giữa các dân tộc diễn ra sôi nổi như hiện nay thì việc Hàn Quốc
trở thành một quốc gia đa văn hóa là điều không mấy ngạc nhiên. Thông
qua đó, người dân Hàn Quốc cũng được học hỏi thêm nhiều về các chính
sách, luật pháp vượt ra ngoài biên giới nước mình để hướng đến một xã
hội đa văn hóa cùng sinh sống hòa bình. Hàn Quốc đã nhận được sự quan
tâm của thế giới trong quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, và
giờ đây đất nước này lại đã và đang xây dựng nên một thế giới thu nhỏ
trong lòng quốc gia.


http://world.kbs.co.kr/vietnamese/program/program_kpanorama_detail.htm?No=10048783
KHOA HÀN QUỐC HỌC - FACULTY OF KOREAN STUDIES - 한국학부
|